Thuốc BVTV không có tội, tội là do con người (20/07/2017)

Thời gian gần đây, trong dư luận cũng như nhận thức của nhiều nhà quản lý và đông đảo người tiêu dùng, thuốc BVTV được nhận diện, đánh giá thiếu đầy đủ, có lúc bị lên án cực đoan dễ tạo nên tâm lý lo sợ, nhiều trường hợp gây tổn hại lớn về uy tín và kinh tế cho người sản xuất cũng như kinh doanh thuốc BVTV.

Những mùa ngô xa dần, số ca ngộ độc thuốc trừ cỏ ngày một hiện rõBi kịch những ngôi nhà hoang lạnh cùng hàng chục hecta nương ngô bỏ hoangNhững biến dị hình hài ẩn chứa phía sau những nương ngô 'ướt đẫm' thuốc trừ cỏNhững cái chết yểu cùng thân phận hẩm hiu liên quan đến thuốc trừ cỏ???Hãi hùng cảnh tượng thuốc độc tràn ngập vùng cao Sơn La

Công bằng với thuốc BVTV

Chúng tôi cho rằng cần có sự công bằng đối với thuốc BVTV cả trong nhận thức lẫn hành động. Điều đó vừa đảm bảo sản xuất kinh doanh nông sản có hiệu quả, bảo vệ tín nhiệm của thương hiệu nông sản Việt Nam, vừa đảm bảo khắc phục các tác động tiêu cực của thuốc BVTV vì sức khỏe người tiêu dùng và bảo vệ môi trường.


Tác giả, KS Trương Quốc Tùng, nguyên Phó Chủ tịch thường trực Hội KHKT BVTV Việt Nam

Công bằng với thuốc BVTV trước hết là đánh giá đúng, khách quan và khoa học vai trò của nó trong sản xuất và đời sống, cả mặt tích cực lẫn tiêu cực. Thực tiễn phát triển nông nghiệp ở thế giới và nước ta đã khẳng định càng phát triển sản xuất càng phải tăng cường bảo vệ sản xuất. Trong biện pháp tổng hợp quản lý dịch hại (IPM) thì thuốc BVTV là yếu tố quan trọng, đặc biệt để dập dịch trên quy mô rộng. Nếu không có thể tổn thất tới 20-40% năng suất thậm chí bị mất trắng. Công bằng với thuốc BVTV còn là phải nhận diện được đầy đủ mặt trái, tiêu cực của thuốc BVTV hay chính xác hơn là việc sử dụng thuốc BVTV của con người...

Tuy nhiên, với thuốc BVTV cũng phải lên án những hành vi sai trái nhiều khi vi phạm luật pháp, trái đạo lý và văn hóa kinh doanh đối với mặt hàng kinh doanh có điều kiện và đặc biệt này của một số doanh nghiệp và đại lý sản xuất kinh doanh thuốc BVTV. Họ vì lợi nhuận riêng mà làm tổn hại đến sản xuất và chất lượng nông sản, tổn hại đến môi trường và sức khỏe cộng đồng. Họ còn làm tổn hại đến cả thanh danh của thuốc BVTV và những người làm công tác BVTV nói chung và sản xuất kinh doanh thuốc BVTV nói riêng.


Không có trang bị bảo hộ, nông dân này phải lấy một bao tải phân đạm để che người

Để có sự công bằng với thuốc BVTV bên cạnh tăng cường sự hiểu biết, nhận thức đầy đủ về thuốc BVTV, cần có sự gia tăng quản lý việc sản xuất kinh doanh và sử dụng thuốc BVTV, sự tỉnh táo và thông minh của người tiêu dùng cũng như sự hiểu biết, khách quan, tôn trọng khoa học trong thông tin tuyên truyền của các cơ quan truyền thông. 

Tội là do con người

Thời gian qua dư luận và cả công luận có nhiều ý kiến liên quan đến việc sử dụng thuốc trừ cỏ Paraquat mà bà con nông dân quen gọi là thuốc cháy cỏ… Điều dư luận bàn tới nhiều là việc nhiều trường hợp sử dụng nó để tự tử, điển hình thực tế ở tỉnh Sơn La mà gần đây báo NNVN có một số bài đề cập. Đây là một thực tế đau lòng. Nhưng nhìn nhận nguyên nhân và giải pháp xử lý vấn đề lại có những ý kiến đa chiều nhiều khi trái chiều.

Năm 2015 tại Hà Nội có 1 cuộc hội thảo khoa học lớn về chuyên đề này quy tụ sự tham gia của nhiều nhà khoa học hàng đầu về BVTV, nông nghiệp, hóa học, y tế... trong cả nước với sự thống nhất cao: Đây không phải là vấn đề của bản thân sản phẩm Paraquat vì nó không phải được tìm ra, sản xuất và nhập khẩu, hướng dẫn sử dụng để… tự tử mà là để diệt cỏ dại. Cũng như một số thành tựu vĩ đại về khoa học công nghệ của loài người như phát minh ra chất nổ của Nobel, như hạt nhân, giờ đây là trí tuệ nhân tạo… Nếu sử dụng vì mục đích tốt và nhân đạo thì là công lớn, ngược lại sử dụng sai mục đích, có thể thành tội ác. Thuốc trừ cỏ cũng vậy. Nó là kỳ tích của khoa học nhưng nếu dùng sai mục đích (như chất độc da cam Mỹ rải trong chiến tranh Việt Nam và nhỏ hơn như trường hợp dùng Paraquat để tự tử ở Sơn La) thì đó là tội ác!

Vấn đề quan trọng ở đây không phải là kết tội cho thuốc trừ cỏ mà tìm giải pháp ngăn chặn việc sử dụng sai mục đích. Những tác động tiêu cực của sử dụng thuốc BVTV cũng là tội của con người. Thực tế sản xuất và đời sống, những kết quả nghiên cứu về mặt trái của sử dụng thuốc BVTV trong thời gian qua cho thấy khá nghiêm trọng (báo NNVN cũng đã rất nhiều lần nêu lên) thể hiện ở các mặt sau:

Một là, chúng ta đã lạm dụng thuốc BVTV, sử dụng quá mức cần thiết. Số lượng và giá trị nhập khẩu thuốc BVTV 10 năm gần đây (2005-2015) đã tăng gần 18 lần, từ 50 triệu USD lên khoảng 800 triệu USD, tốc độ tăng 20-30%/năm, cao hơn rất nhiều của thế giới là 2-3%/năm. Số lượng hoạt chất và tên thuốc thương mại được đăng ký trong danh mục cũng đã tăng nhanh, hiện nay đã có trên 4.000 loại.

Kết quả nghiên cứu, kết quả áp dụng các tiến bộ kỹ thuật như IPM, 3 giảm 3 tăng, VietGAP… trên diện rộng hàng triệu ha cho thấy chúng ta hoàn toàn có thể giảm mức sử dụng thuốc BVTV khoảng 30-50% mà vẫn đảm bảo năng suất lại an toàn thực phẩm và hạn chế tác động hại đến môi trường và hệ sinh thái, đa dạng sinh học. Số loại thuốc BVTV các địa phương sử dụng phổ biến cũng khoảng 100-300 chứ không cần đến hàng ngàn loại.


Bình thuốc và bao tải thuốc trừ cỏ để ngay trong bếp nhà.

Trách nhiệm ở đây trước hết là các cơ quan quản lý nhà nước trong việc ban hành chính sách, trong việc lập danh mục và quản lý danh mục thuốc BVTV, trong việc nhập khẩu, của các doanh nghiệp và đại lý thuốc BVTV nhiều khi thiếu hiểu biết kỹ thuật, quá coi trọng lợi nhuận, của các tổ chức nông nghiệp và BVTV địa phương trong tuyên truyền hướng dẫn kỹ thuật và của cả các cơ quan truyền thông.

Hai là, mạng lưới sản xuất kinh doanh thuốc BVTV tăng nhanh và khó kiểm soát. Đến năm 2015 cả nước có trên 300 công ty sản xuất kinh doanh thuốc BVTV, 93 nhà máy, cơ sở sản xuất thuốc và xấp xỉ 32.000 của hàng, đại lý buôn bán thuốc BVTV. Trong khi hệ thống thanh tra BVTV rất mỏng, yếu, cơ chế hoạt động rất khó khăn. Một thanh tra viên năm 2010 phụ trách 290 đơn vị sản xuất buôn bán thuốc BVTV, 100.000 ha trồng trọt sử dụng thuốc BVTV và 10 vạn hộ nông dân sử dụng thuốc BVTV. Như vậy rõ ràng mạng lưới này là quá tải, rất khó kiểm soát.

Sự thiếu khả năng kiểm soát này là một nguyên nhân quan trọng dẫn tới những hậu quả xấu trong quản lý và sử dụng thuốc BVTV và hoàn toàn do con người gây ra, trước hết trong luật pháp, chính sách về BVTV, tổ chức và cơ chế của thanh tra chuyên ngành.

Ba là, những tồn tại, hạn chế, thiếu sót trong việc sử dụng thuốc BVTV. Sử dụng thuốc khi thiếu hiểu biết về kỹ thuật. Theo một số kết quả điều tra, chỉ có 52,2% cán bộ kỹ thuật nông nghiệp, khuyến nông cơ sở hiểu đúng kỹ thuật sử dụng thuốc BVTV, tỷ lệ này ở người bán thuốc là 33%, ở nông dân 49,6%. Sử dụng thuốc quá liều lượng khuyến cáo, tùy tiện hỗn hợp khi sử dụng. Kết quả điều tra ở các tỉnh phía Nam có tới 38,6% dùng liều lượng cao hơn khuyến cáo, 29,7% tự ý hỗn hợp nhiều loại thuốc khi phun. Năm 2010, 19,59% nông dân cả nước vi phạm sử dụng thuốc trong đó không đúng nồng độ là 73,2% (nguồn: Cục BVTV).

Sử dụng thuốc BVTV không tuân thủ thời gian cách ly. Đây là một tồn tại nguy hiểm, tác động trực tiếp đến vệ sinh an toàn thực phẩm song đáng tiếc là rất phổ biến, đặc biệt ở các vùng rau quả, chè… Có tới 35-60% nông dân chỉ thực hiện thời gian cách ly từ 1-3 ngày… Có một bộ phận nông dân cố tình sử dụng thuốc BVTV sai quy định pháp lý và kỹ thuật vì mục đích lợi nhuận của bản thân, xem nhẹ luật pháp và lợi ích cộng đồng. Năm 2010, theo Cục BVTV, còn 5,19% số hộ dùng thuốc cấm, ngoài danh mục, 10,22% không đúng thời gian cách ly, 51% không thực hiện theo khuyến cáo của nhân viên kỹ thuật


Hai mẹ con đi phun thuốc trừ cỏ

Vậy những tồn tại nêu trên đâu phải là tội của thuốc BVTV mà hoàn toàn do những sai lầm, tắc trách, thiếu hiểu biết của con người, cả nhà quản lý, người kinh doanh, nhà khoa học và người sử dụng.

TRƯƠNG QUỐC TÙNG

(Nguyên Phó Chủ tịch thường trực Hội KHKT BVTV Việt Nam)

Theo nongnghiep.vn
Share on Facebook   Share on Twitter Share on Google Share on Buzz
CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ CỦA VIETGAP

Địa chỉ: Tầng 4, tòa nhà 130 Nguyễn Đức Cảnh, phường Tương Mai, quận Hoàng Mai, TP. Hà Nội

Điện thoại: 0243.634.1933 ext. 150

Email: vietgap@fsi.org.vn

Hotline: 0904.628.499

| |
Copyright © 2014 VietGap - All Right Reserved.
Đang online: 123
Tổng truy cập: 39349354